Với sự kiên trì, không ngại khó, ngại khổ, mạnh dạn chuyển đổi công việc, cùng với tận dụng thế mạnh về đất đai và nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương, gia đình chị Trần Thị Nga đã xây dựng thành công trang trại nuôi thỏ thương phẩm.
Thức ăn cho thỏ dễn kiếm, đa dạng
Hàng năm, cung cấp sản lượng thỏ lớn ra thị trường, có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm.
Khởi nghiệp từ nuôi thỏ
Đến thăm trang trại nuôi thỏ rộng hàng hecta của gia đình chị Trần Thị Nga (thôn Phủ Niệm, xã Thái Sơn, huyện An Lão, TP. Hải Phòng), chúng tôi được “mục sở thị” đàn thỏ hàng nghìn con, trông như những “cục bông” di động, ngoan ngoãn bên trong lồng sắt. Những dãy lồng sắt được đặt cao ngang lưng người lớn, ngăn thành từng ô nhỏ để cho đàn thỏ ở.
Chị Nga với dáng người nhỏ nhắn, lúc nào cũng luôn chân luôn tay, vừa cho thỏ ăn, chị vừa niềm nở trao đổi với phóng viên: Trước khi đến với nghề nuôi thỏ, tôi từng làm thợ may, chồng làm xây dựng. Dành dụm được chút vốn, tôi cùng chồng xoay đủ thứ làm ăn để tăng thu nhập. Sau thời gian tìm hiểu, tôi nhận thấy điều kiện đất đai rộng rãi ở địa phương, cùng với nguồn thức ăn dồi dào, phù hợp để nuôi thỏ.
Theo chị Nga, thỏ là con vật hiền lành; không tốn nhiều chi phí thức ăn, bởi chúng thường ăn các loại rau, củ, quả rẻ tiền, dễ tìm; sinh sản nhanh; thịt thỏ có nhiều dinh dưỡng, hàm lượng protein cao; được người tiêu dùng ưa chuộng. Thỏ có khả năng sinh sản cao và chu kỳ sinh sản ngắn. Ngoài ra, thỏ còn được nhiều người yêu mến, chọn nuôi làm thú cưng trong các khu vui chơi giải trí, khu sinh thái, nông trại du lịch trải nghiệm…
Để nắm vững kỹ thuật nuôi, ngoài việc tham khảo qua đài, báo, internet…, năm 2013, chị Nga lên Sơn Tây (Hà Nội) học nghề nuôi thỏ. Từ những kiến thức tích lũy được, chị trở về địa phương bắt tay vào xây dựng chuồng trại và trồng rau làm nguồn thức ăn nuôi thỏ tại xã Thái Sơn.
Bí quyết thành công
Chị Nga cho hay, thỏ là loài vật rất mẫn cảm, dễ lây bệnh nên chuồng trại phải cách xa khu vực nuôi gia súc khác. Thiết kế chuồng phải đảm bảo kín, ấm về mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Lồng nuôi làm bằng sắt, thiết kế thành khối hình chữ nhật, cao 50cm, dài 100cm, rộng 50 - 60cm, chia ra 2 ngăn, mỗi ngăn nuôi 1 thỏ nái hoặc 2 thỏ hậu bị, riêng thỏ thương phẩm được nhốt đông hơn.
Ở mỗi dãy chuồng nuôi thỏ, ngăn thành từng ngăn nhỏ riêng biệt, giúp thỏ có khoảng cách đi lại hoạt động vừa đủ. Bên ngoài chuồng trang bị máng đựng thức ăn tinh và hệ thống vòi nước uống tự động để thỏ dễ dàng ăn uống.
Chị Nga xử lý phân và nước tiểu bằng men sinh học nên dù nuôi thỏ với số lượng lớn nhưng khu vực chăn nuôi luôn sạch sẽ. Cũng nhờ đó, đàn thỏ không chỉ ít bệnh mà còn sinh trưởng, phát triển khá tốt. Lượng phân đã qua xử lý, chị dùng để nuôi trùn quế, dùng phân trùn quế bón cho cây trồng làm thức ăn cho thỏ.
Mỗi ngày thỏ ăn 2 bữa, thức ăn được phân bổ phù hợp cho từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển nên chất lượng đàn thỏ nuôi nhà chị Nga luôn được kiểm soát.
“Thỏ là giống ăn tạp nhưng không phải ai cũng nuôi được, ở huyện An Lão, nhiều người đến thăm mô hình, mua giống về nuôi nhưng rồi cũng bỏ vì không trụ được. Thỏ hay bị bệnh ghẻ, nấm, rối loạn tiêu hóa nên ngoài việc vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, khử trùng thường xuyên, cần tiêm phòng vắc-xin bại huyết để giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh”, chị Nga cho biết thêm.
Thỏ cái nuôi khoảng 6 tháng là bắt đầu sinh sản. Trung bình mỗi tháng đẻ 1 lứa, mỗi lứa khoảng 5 - 8 con. Thỏ con được 1 tháng tuổi thì tách mẹ để nuôi thương phẩm, sau 3 tháng nuôi đạt trọng lượng 2 - 2,5 kg/con là có thể xuất bán.
Đến nay, gia đình chị Nga đã xây dựng thành công trang trại nuôi thỏ với quy mô 1.500 - 2.500 con bán thương phẩm, hơn 100 thỏ mẹ sinh sản và 600 -700 thỏ con. Mỗi tháng gia đình xuất ra thị trường khoảng 5 - 6 tạ thịt, bán với giá 85.000-90.000/kg, trừ chi phí, thu lãi 18 - 20 triệu đồng, có tháng đạt 30 triệu đồng. Đầu mối tiêu thụ tại một số tỉnh, thành phố và nhà hàng, khách sạn.
Nghị lực, nhiệt huyết, dám nghĩ, dám làm để vươn lên làm giàu cho bản thân và gia đình, chị Trần Thị Nga đã mạnh dạn đầu tư vào nuôi thỏ và mang lại nguồn thu nhập ổn định. Đây là mô hình nhiều triển vọng, phát huy lợi thế địa phương, đa dạng hoá vật nuôi và mở ra hướng đi mới cho người nông dân, góp phần xây dựng nông thôn mới.