Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 7 tháng: Tăng trưởng tích cực từ các mặt hàng chủ lực, đạt gần 40 tỷ USD
Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản (NLTS) tháng 7 năm 2025 ước đạt 6,01 tỷ USD, tăng 13,4% so với tháng 7 năm 2024; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS 7 tháng của năm 2025 đạt 39,68 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2024.
Ước tính 7 tháng của năm 2025 có 6 mặt hàng NLTS có thặng dư thương mại đạt trên 1 tỷ USD gồm: gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê, rau quả, gạo, tôm, cá tra
Nhiều mặt hàng chủ lực tăng trưởng tích cực
Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hoạt động sản xuất, kinh doanh nông, lâm, thủy sản và xây dựng nông thôn mới trên phạm vi cả nước trong tháng 7 và 7 tháng của năm 2025 đạt được những kết quả tích cực.
Theo đó, kim ngạch xuất khẩu NLTS tháng 7 ước đạt 6,01 tỷ USD, tăng 13,4% so với tháng 7 năm 2024; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS 7 tháng của năm 2025 đạt 39,68 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2024 (thặng dư 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước).
Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 21,49 tỷ USD, tăng 17%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 339,2 triệu USD, tăng 22,1%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 6,06 tỷ USD, tăng 13,8%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 10,38 tỷ USD, tăng 8,6%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,4 tỷ USD, tăng 30,2%; giá trị xuất khẩu muối đạt 6,4 triệu USD, tăng 2,2 lần.
Trong 7 tháng, nhiều mặt hàng chủ lực ghi nhận tăng trưởng tích cực. Trong đó, cà phê có sự tăng trưởng ngoạn mục về giá trị. Cụ thể, khối lượng xuất khẩu cà phê tháng 7 năm 2025 ước đạt 110 nghìn tấn với giá trị đạt 592,7 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu cà phê 7 tháng của năm 2025 đạt 1,1 triệu tấn và 6 tỷ USD, tăng 7,6% về khối lượng và tăng 65,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Giá cà phê xuất khẩu bình quân 7 tháng của năm 2025 ước đạt 5672,2 USD/tấn, tăng 53,4% so với cùng kỳ năm 2024. Đức, Italia và Tây Ban Nha là 3 thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 15,3%, 7,6% và 7,5%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu cà phê tăng mạnh nhất ở thị trường Mêxicô với mức tăng 88 lần và tăng thấp nhất ở thị trường Trung Quốc với mức tăng 24,4%.
Sau thời gian sụt giảm, giá trị xuất khẩu hàng rau quả tháng 7 năm 2025 ước đạt 810 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu hàng rau quả 7 tháng của năm 2025 đạt 3,92 tỷ USD, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2024. Mặt hàng rau quả của Việt Nam chủ yếu được xuất sang thị trường Trung Quốc với tỷ trọng giá trị xuất khẩu chiếm 52,6%. Hai thị trường xuất khẩu rau quả lớn tiếp theo là Hoa Kỳ và Hàn Quốc với tỷ trọng giá trị xuất khẩu lần lượt là 8,4% và 5,1%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu hàng rau quả tăng mạnh nhất ở thị trường Hoa Kỳ với mức tăng 65,5% và giảm mạnh nhất ở thị trường Thái Lan với mức giảm 31,4%.
Đối với mặt hàng gạo, khối lượng xuất khẩu gạo tháng 7 năm 2025 ước đạt 750 nghìn tấn với giá trị đạt 366,1 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 7 tháng của năm 2025 đạt 5,5 triệu tấn và 2,81 tỷ USD, tăng 3,1% về khối lượng nhưng giảm 15,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá gạo xuất khẩu bình quân 7 tháng của năm 2025 ước đạt 514 USD/tấn, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm 2024. Philippin là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 42,6%. Gana và Bờ Biển Ngà là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 11,1% và 10,6%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh nhất ở thị trường Bangladesh với mức tăng 188,2 lần và giảm mạnh nhất ở thị trường Malaysia với mức giảm 58,5%.
Khối lượng xuất khẩu cao su tháng 7 năm 2025 ước đạt 200 nghìn tấn với giá trị đạt 323,9 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu cao su 7 tháng của năm 2025 đạt 893,8 nghìn tấn và 1,61 tỷ USD, giảm 2,1% về khối lượng nhưng tăng 13,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Khối lượng xuất khẩu chè tháng 7 năm 2025 ước đạt 12 nghìn tấn với giá trị đạt 20,5 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu chè 7 tháng của năm 2025 đạt 69,9 nghìn tấn và 117 triệu USD, giảm 10,9% về khối lượng và giảm 12,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Khối lượng xuất khẩu hạt điều tháng 7 năm 2025 ước đạt 65 nghìn tấn với giá trị đạt 437,7 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu hạt điều 7 tháng của năm 2025 đạt 409,6 nghìn tấn và 2,79 tỷ USD, giảm 3,3% về khối lượng nhưng tăng 17,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 7 tháng của năm 2025 ước đạt 6799,9 USD/tấn, tăng 21,4% so với cùng kỳ năm 2024. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Hà Lan là 3 thị trường tiêu thụ hạt điều lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 22,4%, 20,3% và 9,1%.
Khối lượng xuất khẩu hạt tiêu tháng 7 năm 2025 ước đạt 22 nghìn tấn với giá trị đạt 143 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu hạt tiêu 7 tháng của năm 2025 đạt 145,3 nghìn tấn và 991,1 triệu USD, giảm 11,6% về khối lượng nhưng tăng 29,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá hạt tiêu xuất khẩu bình quân 7 tháng của năm 2025 ước đạt 6823,2 USD/tấn, tăng 46,9% so với cùng kỳ năm 2024. Hoa Kỳ, Đức và Ấn Độ là 3 thị trường tiêu thụ hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 26%, 8,9% và 7,3%.
Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn tháng 7 năm 2025 ước đạt 220 nghìn tấn với giá trị đạt 70,6 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn 7 tháng của năm 2025 đạt 2,5 triệu tấn và 757,8 triệu USD, tăng 54,6% về khối lượng và tăng 3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá sắn và các sản phẩm từ sắn xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt 305,2 USD/tấn, giảm 33,4% so với cùng kỳ năm 2024. Mặt hàng sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc khi thị trường này chiếm tới 93,2% thị phần. Đài Loan và Malaysia là hai thị trường tiêu thụ lớn tiếp theo với thị phần nhỏ, chiếm lần lượt 1,6% và 0,9%.
Bên cạnh đó, giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 7 năm 2025 ước đạt 60 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 7 tháng của năm 2025 đạt 339,2 triệu USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 60,9 triệu USD, giảm 17%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 118,4 triệu USD, tăng 30,5%.
Giá trị xuất khẩu hàng thủy sản tháng 7 năm 2025 ước đạt 950 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 7 tháng của năm 2025 đạt 6,06 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2024. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản là 3 thị trường tiêu thụ hàng thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 19,6%, 17,6% và 15,3%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Braxin với mức tăng 77,1% và giảm mạnh nhất ở thị trường Nga với mức giảm 3,4%.
Giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tháng 7 năm 2025 ước đạt 1,5 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 7 tháng của năm 2025 đạt 9,67 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2024. Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần 55,9%. Nhật Bản và Trung Quốc là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 12,4% và 10,7%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng mạnh nhất ở thị trường Tây Ban Nha với mức tăng 47,3% và giảm mạnh nhất ở thị trường Trung Quốc với mức giảm 16,8%.
Hoa Kỳ là đối tác lớn nhất
Theo đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường, xét theo thị trường cụ thể, đối tác lớn nhất của Việt Nam trong xuất khẩu NLTS là Hoa Kỳ (chiếm 21% thị phần), sau là thị trường Trung Quốc (18,4%), Nhật Bản (7,2%). Trong số đó, trong tháng 7 xuất sang Nhật Bản tăng 23,6%, Hoa Kỳ tăng 12,1% và Trung Quốc tăng 3,6%.
Châu Á tiếp tục thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 42,6%. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,3% và 15,1%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3,1% và 1,3%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam 7 tháng của năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 3,3%; châu Mỹ tăng 14,7%; châu Âu tăng 43,1%; châu Phi tăng 88,9%; và châu Đại Dương tăng 4,4%.
Theo đó, cán cân thương mại NLTS Việt Nam 7 tháng của năm 2025 ước đạt thặng dư 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo nhóm hàng, lâm sản, thủy sản và nông sản là 3 nhóm hàng có cán cân thương mại 7 tháng của năm 2025 ở trạng thái thặng dư. Cụ thể, nhóm lâm sản ước đạt thặng dư 8,39 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2024; nhóm thủy sản thặng dư 4,18 tỷ USD, tăng 7,5%; và nhóm nông sản thặng dư 4,28 tỷ USD, tăng 33,4%. Trong khi đó, cán cân thương mại 3 nhóm hàng còn lại ở trạng thái thâm hụt: Nhóm đầu vào sản xuất thâm hụt 3,1 tỷ USD, giảm 6,9%; sản phẩm chăn nuôi thâm hụt 2,21 tỷ USD, tăng 22,9%; và muối thâm hụt 15,9 triệu USD, giảm 9,2%.
Đặc biệt, ước tính 7 tháng của năm 2025 có 6 mặt hàng NLTS có thặng dư thương mại đạt trên 1 tỷ USD gồm: Gỗ và sản phẩm gỗ thặng dư 7,7 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; cà phê thặng dư 5,78 tỷ USD, tăng 66%; hàng rau quả thặng dư 2,47 tỷ USD, giảm 7,1%; tôm thặng dư 2,08 tỷ USD, tăng 16,3%; gạo thặng dư 1,81 tỷ USD, giảm 30%; cá tra thặng dư 1,11 tỷ USD, tăng 8,3%.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường có 5 mặt hàng NLTS có thâm hụt thương mại ước tính 7 tháng của năm 2025 cao nhất gồm: Thức ăn gia súc và nguyên liệu thâm hụt 1,89 tỷ USD, giảm 17,2% so với cùng kỳ năm trước; bông các loại thâm hụt 1,88 tỷ USD, tăng 10,1%; chế phẩm từ sản phẩm trồng trọt thâm hụt 1,72 tỷ USD, giảm 6,3%; ngô thâm hụt 1,29 tỷ USD, giảm 5,4%; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật thâm hụt 917,7 triệu USD, tăng 10,4%.
Về kim ngạch nhập khẩu NLTS tháng 7 năm 2025 của Việt Nam ước đạt 4,26 tỷ USD, tăng 12,1% so với tháng 7 năm 2024; đưa tổng kim ngạch nhập khẩu NLTS 7 tháng đầu năm 2025 đạt 28,16 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2024.
Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng cho biết, trong tháng 7, các địa phương tập trung vào gieo cấy, chăm sóc lúa, cây trồng vụ mùa và vụ hè thu, đồng thời triển khai quyết liệt, đồng bộ các biện pháp phòng chống, kiểm soát hiệu quả bệnh dịch tả lợn châu Phi, bảo vệ và phát triển đàn gia súc, gia cầm trên cả nước góp phần ổn định sản xuất và tạo những điểm sáng trong kim ngạch xuất nhập khẩu toàn ngành./.